Thực tế rằng, còn
rất lâu nữa khán giả mới được xem những chương trình truyền hình thực
sự. Họ vẫn phải chấp nhận vài phút xem thi hát và nhiều phút xem quảng
cáo.
Nếu cứ xem truyền hình vào những
ngày cuối tuần sẽ thấy người Việt Nam ngoài việc xem những bộ phim ướt
át và báo thù thì suốt ngày lôi nhau lên các đấu trường thi thố. Sự
nghèo nàn trong tư duy sản xuất và phát sóng đã khiến các kênh truyền
hình giải trí tự làm mờ nhạt mình theo nhiều nghĩa, và tôn vinh những
giá trị ảo. Việc tôn vinh này thoạt tiên là lăng xê những cá nhân, nhưng
đằng sau đó không gì khác là để đánh bóng cho những chương trình truyền
hình, vốn rất nhanh chóng bị nhàm chán sau vài mùa giải.
Từ lá thư khán giả...
Vào những ngày cuối cùng của tháng
7-2013, chúng tôi nhận được một lá thư của khán giả tên Mai Linh gửi từ
khu tập thể Bách Khoa, Hà Nội. Lá thư giống như lời phàn nàn đầy tuyệt
vọng của một khán giả trung thành với truyền hình khi những gì là giá
trị cốt lõi mà họ tôn thờ nhiều năm đang bị vứt bỏ, thay vào đó là những
trò diễn. Bức thư có đoạn: "Tôi không thể hiểu nổi, vì sao cùng kênh
truyền hình lại phát liên tục hai chương trình trẻ em thi hát liền nhau
vào buổi tối thứ bảy và chủ nhật, đó là "Giọng hát Việt nhí" và "Đồ Rê
Mí". Phải chăng, nhà Đài muốn chủ trương cổ động cho mọi gia đình Việt
Nam rằng, muốn con cái thành công thì phải đào tạo thật sớm để ném chúng
vào các đấu trường thi thố ca hát và nhanh chóng nổi tiếng?
Về hình thức, hai cuộc thi này có chút
khác nhau, nhưng cơ bản là đều cùng cho các em bé lên sân khấu và biểu
diễn những bài hát do người lớn tư vấn và lựa chọn. Sau đó, chúng sẽ
được những vị giám khảo đánh giá, xem xét và cuối cùng chúng sẽ bằng
cách này hay cách khác rời bỏ cuộc chơi. Và cái kết như chúng ta đều
biết, là sẽ tôn vinh một em bé nào đó làm quán quân... Nếu như vài năm
trước, "Đồ Rê Mí" là "đặc sản" của kênh truyền hình đó thì nay nó đã trở
thành một món ăn khá mờ nhạt, không hiểu vì sao lãnh đạo kênh này vẫn
phát sóng.
Ngoài chuyện phân tích về hai chương
trình thi hát cho thiếu nhi, khán giả Mai Linh còn đề cập đến sự đơn
điệu trong thực đơn giải trí của kênh truyền hình lớn nhất Việt Nam:
"Thực tế chúng ta đều biết, các chương trình thi thố truyền hình dễ gây
được hiệu ứng đám đông. Nhưng, tôi có nhớ rằng, ngoài vai trò mua vui
thì truyền hình cũng là một cơ quan truyền thông, đưa những thông tin
hữu ích về mọi mặt đến với công chúng cả nước. Thực đơn giải trí buổi
tối của khán giả, đặc biệt là những ngày cuối tuần, rất nghèo nàn.
Dù không thích xem trẻ con thi đấu, nhưng khán giả
vẫn bắt buộc phải xem "Đồ Rê Mí" và...
Tôi
lấy ví dụ, chẳng hạn như chương trình "Giọng hát Việt" mùa thứ hai, có
được một điều mới hơn mùa thứ nhất là chiêu các huấn luyện viên được
quyền "cứu" các thí sinh, khiến cho những tài năng không bị bỏ sót. Điều
này đã khiến khán giả cảm thấy được việc nó bớt nhàm chán hơn. Trong
khi đó, những cuộc thi như Sao Mai, gần hai chục năm rồi vẫn nguyên vẹn
một phong cách các thí sinh lần lượt lên hát thật to và giám khảo lần
lượt cho điểm rồi trao giải. Thử đặt mình vào tâm lý khán giả, hẳn những
người thực hiện chương trình sẽ có câu trả lời, rằng bạn có muốn xem
một thứ mà bạn đã thuộc lòng từ trước khi nó diễn ra hay là không...
Với những khán giả như tôi, ngoài những
cuộc thi thố để mua vui và những bộ phim báo thù đẫm nước mắt, tôi cần
những chương trình truyền hình thực sự gây xúc động. Nó phải tác động
được vào đời sống người dân bằng nhiều cách và mang đến cho họ những cảm
xúc tốt đẹp và thúc đẩy cuộc sống của họ tươi sáng hơn. Đó cũng là một
chức năng quan trong của sự giải trí. Còn những chương trình thi thố
trên truyền hình hiện tại, lại chủ yếu mang đến sự ngờ vực và mất lòng
tin. Vậy thì truyền hình sinh ra để làm gì"...
... đến những sự thật đắng lòng
Nếu ai đã từng làm truyền hình giải trí,
đều cảm thấy đắng lòng trước một thực tế, những gì càng nhảm nhí càng
dễ gây được hiệu ứng cao. Có vẻ như những khán giả truyền hình nghiêm
túc ngày càng thưa vắng. Và tất cả những gì người làm chương trình nghĩ
ra được là làm sao có những sản phẩm thu hút đám đông càng nhiều càng
tốt. Mục đích không phải vì lợi ích của đám đông đó, mà vì chính những
công ty chế tác. Bởi có nhiều khán giả thì lượng rating sẽ rất cao.
Và các đại lý quảng cáo chỉ mua spot quảng cáo trong những chương trình có rating ngất ngưởng. Mặc dù, xét cho cùng, ở Việt Nam, người ta chẳng có gì hơn ngoài việc lấy số liệu từ một công ty duy nhất, đó là TNS. Uy tín và số liệu này chính xác đến đâu, có vẻ là điều chưa ai trong ngành quảng cáo và truyền hình đặt lên bàn cân một cách nghiêm túc. Điều này lý giải vì sao, chương trình "Giọng hát Việt" vào những tập phát sóng trực tiếp đã tăng giá bán quảng cáo lên hơn gấp đôi, nghĩa là muốn xuất hiện 30 giây trên truyền hình vào giờ phát sóng vàng này, các nhãn hàng sẽ phải trả gần 300 triệu đồng...
Và các đại lý quảng cáo chỉ mua spot quảng cáo trong những chương trình có rating ngất ngưởng. Mặc dù, xét cho cùng, ở Việt Nam, người ta chẳng có gì hơn ngoài việc lấy số liệu từ một công ty duy nhất, đó là TNS. Uy tín và số liệu này chính xác đến đâu, có vẻ là điều chưa ai trong ngành quảng cáo và truyền hình đặt lên bàn cân một cách nghiêm túc. Điều này lý giải vì sao, chương trình "Giọng hát Việt" vào những tập phát sóng trực tiếp đã tăng giá bán quảng cáo lên hơn gấp đôi, nghĩa là muốn xuất hiện 30 giây trên truyền hình vào giờ phát sóng vàng này, các nhãn hàng sẽ phải trả gần 300 triệu đồng...
Điều đáng nói là, với những người làm chương trình thì mục đích làm ăn đã thấy rất rõ.
Còn nhớ, cách đây chưa lâu, nhạc sỹ Quốc
Bảo có chia sẻ, những kinh nghiệm ít nhiều cay đắng: Các cuộc thi chỉ
là trò quảng cáo mua vui, bởi vì bản thân của các chương trình như The
Voice, Idol, Dancing with star... là để lấy quảng cáo. Nó là cuộc chơi
tương đối đại chúng, thậm chí hơi bình dân, dành cho những đối tượng
bình dân, thay thế cho dòng "sitcom" (hài kịch tình huống) khi xưa. Cái
này có vẻ thú vị và hào nhoáng hơn, thu hút được số đông nhiều hơn. Ngày
trước, khi Vietnam Idol mùa đầu tiên khởi động, tôi có tham dự các cuộc
họp với thiện chí đóng góp cho họ rất nhiều, thậm chí góp ý cho các thí
sinh. Về sau, tôi nhận ra mình là kẻ vô cùng ngây ngô.
..."Giọng hát Việt nhí" vào giờ vàng hai ngày cuối tuần.
Và mới đâỵ, nhạc sỹ Huy Tuấn cũng chia
sẻ, rất nhiều người bị say sưa với các cuộc thi hát trên truyền hình và
nghĩ rằng, đó là thước đo của thị trường âm nhạc và thắc mắc sao nhiều
hiện tượng trong các cuộc thi hát bỗng dưng mất tăm sau khi rời cuộc
thi. Thực tế các cuộc thi đó chỉ thuộc về truyền hình, còn thị trường âm
nhạc lại là một dòng chảy khác và các cuộc thi ấy chỉ có chức năng duy
nhất là phát hiện và giới thiệu những nhân tố mới. Còn để một ca sỹ
thành công, thì không đơn giản là cứ đi thi là xong.
Nhìn từ bức xúc của những khán giả đơn
thuần như Mai Linh, tác giả bức thư ở trên, và những chia sẻ của những
nhà sản xuất âm nhạc như Huy Tuấn và Quốc Bảo, sẽ cho thấy một thực tế
rằng, còn rất lâu nữa khán giả mới được xem những chương trình truyền
hình thực sự được sản xuất để phục vụ họ. Họ vẫn phải chấp nhận vài phút
xem thi hát và nhiều phút xem quảng cáo. Trong ngành marketing và
truyền thông có thuật ngữ "target khách hàng", nghĩa là các chương trình
truyền hình được làm ra hiện nay trước hết không phải phục vụ khán giả,
mà phải nhắm đến đối tượng khách hàng nào phù hợp, để thuyết phục họ bỏ
tiền ra tài trợ. Trong cái vòng luẩn quấn của cơm áo gạo tiền và túi
tham của nhà sản xuất, thì dù có trả tiền hàng tháng xem truyền hình
cáp, khán giả Việt Nam cũng khó lòng có được những chương trình truyền
hình giải trí sạch sẽ thực sự để thưởng thức.
-----------------------------------------------